Tìm giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục dân tộc
|
|
Những năm qua, ngành GD&ĐT đã có nhiều giải pháp phù hợp với điều kiện của tỉnh miền núi, động viên, cổ vũ, khích lệ con em các dân tộc đến trường học tập, thực hiện tốt công tác phổ cập DGTH đúng độ tuổi. Tuy nhiên, giáo dục dân tộc vẫn còn nhiều khó khăn cần những giải pháp, biện pháp tích cực để nâng cao chất lượng.
Nỗ lực
không ngừng
Đến nay, quy
mô trường lớp, học sinh trong tỉnh phát triển mạnh với 207 trường mầm
non, 219 trường TH, 19 trường PTCS, 209 trường THCS, 38 trường THPT, 12
Trung tâm GDTX, 210 trung tâm học tập cộng đồng… 100% các huyện vùng khó
khăn có trường DTNT, trong đó có 4 trường đạt chuẩn quốc gia. Với hệ
thống trường lớp đến tận thôn bản đã thu hút tối đa học sinh dân tộc
thiếu số đến trường. Ông Nguyễn Minh Thành, GĐ Sở GD&ĐT cho biết:
Ngành GD&ĐT tỉnh đã đảm bảo tốt nhất về “Quyền được giáo dục, học
tập của trẻ em”. Tỷ lệ trẻ đi học bình quân hàng năm từ 99,5 – 99,8%. Cơ
hội học tập của trẻ khuyết tật người dân tộc cũng được quan tâm chăm lo
theo hình thức giáo dục hoà nhập. Chất lượng dạy, học ở các trường vùng
khó khăn, vùng đồng bào dân tộc được nâng lên. Tỷ lệ học sinh dân tộc
tốt nghiệp và thi đỗ vào các trường ĐH, CĐ ngày càng nhiều, riêng trường
PT DTNT tỉnh đạt trên 60%. Tỉnh giữ vững và nâng cao kết quả đạt chuẩn
phổ cập giáo dục CMC, phổ cập giáo dục THĐĐT và phổ cập giáo dục THCS.
Chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục là người dân tộc
không ngừng được nâng cao. Toàn tỉnh có 6.180 CB, CNV là người dân tộc
thiểu số, trong đó có 98% giáo viên tiểu học, 96% giáo viên THCS, 99,8%
giáo viên THPT đạt chuẩn và trên chuẩn. Công tác đào tạo cán bộ, giáo
viên là người dân tộc Mông được quan tâm. Hiện có 42 giáo viên mầm non
và tiểu học là người Mông đang trực tiếp giảng dạy tại 2 xã Hang Kia, Pà
Cò (Mai Châu). Bên cạnh đó, sở tổ chức đào tạo giáo viên cắm bản gồm
các dân tộc Mường, Tày, Thái, đáp ứng đội ngũ giáo viên tại những vùng
đồng bào dân tộc khó khăn. Điều động các giáo viên giỏi, cốt cán đến các
trường vùng này đề giảng dạy, giúp đỡ đổi mới, nâng cao phương pháp dạy
học. Tập huấn kỹ thuật quản lý và dạy lớp ghép cho cán bộ, giáo viên.
Tăng cường cơ sở vật chất, tài liệu, trang thiết bị dạy học. Thực hiện
tốt chế độ chính sách về giáo dục dân tộc; chính sách cử tuyển; chính
sách đối với giáo viên, học sinh công tác ở vùng dân tộc miền núi. Xây
dựng quỹ giúp đỡ vùng khó khăn, phát động cuộc vận động “Quan tâm, giúp
đỡ học sinh khó khăn, học sinh dân tộc” trong toàn ngành.
Khó
khăn giáo dục dân tộc
Chúng tôi đã có lần đến xã Cuối Hạ, huyện Kim Bôi. Buổi sáng mùa đông trên con đường làng lổn nhổn đá, bóng dáng hai em nhỏ trong chiếc áo mỏng manh quốc bộ đến trường làm chúng tôi xúc động. Em Bùi Thị Thơm kể: Chúng em nhà gần hơn còn đỡ, có bạn ở xa phải dậy từ tờ mờ sáng, soi đèn pin mới đến trường kịp giờ học, mùa mưa phải vượt suối. Hiệu trưởng trường THCS Cuối Hạ Lê Văn Sỏi chia sẻ: Trường đã được xây dãy nhà hai tầng nhưng không đủ phòng, vẫn phải học thêm tại khu nhà tranh, vách đất. Các em học sinh xã Vầy Nưa (Đà Bắc) lại phải tự chèo thuyền nan lênh đênh trên lòng hồ mới đến được trường. Những đôi bàn tay nhỏ hết giờ cầm bút lại phải tự rửa nồi, xoong, kiếm củi, rau nấu cơm ăn theo hình thức bán trú dân nuôi. Thầy Xa Văn Yêm, Hiệu trưởng trường TH Vầy Nưa cho biết: Học sinh dân tộc trước khi vào lớp 1 còn phải mở lớp dạy tiếng phổ thông để các em dễ tiếp thu bài. Các chi trường ở những xóm xa thì tổ chức lớp ghép, một giáo viên dạy học sinh ở các trình độ khác nhau. Điều kiện kinh tế khó khăn, đường xá không thuận lợi cùng với việc xiết chặt thi, chấm điểm theo cuộc vận động “hai không” đã làm cho không ít học sinh bỏ học giữa chừng, trong đó chủ yếu là học sinh dân tộc thiểu số.
Mặt khác, theo
đánh giá của Sở GD&ĐT, một bộ phận giáo viên tiểu học, trong đó có
giáo viên người dân tộc thiểu số vừa thừa về số lượng, yếu về chất
lượng. Chất lượng dạy và học ở vùng sâu, vùng cao, vùng lòng hồ, vùng
đồng bào dân tộc còn nhiều hạn chế. Các chính sách đã ban hành chưa đủ
khuyến khích nghề dạy học. Cơ sở vật chất, phương tiện dạy học còn thấp,
còn những phòng học tranh tre nứa lá, chưa được kiên cố. Cơ chế tổ
chức, quản lý còn kém hiệu lực.
Đi
tìm giải pháp
Theo ông
Nguyễn Minh Thành, Giám đốc Sở GD-ĐT, để nâng cao chất lượng giáo dục
dân tộc, trước hết cần nâng cao nhận thức cho đội ngũ giáo viên vùng
này. Tích cực đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực, phát huy
tính năng động, chủ động, sáng tạo của người học. Thực hiện chế độ chính
sách nhằm đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ của người học; quan tâm, giúp
đỡ học sinh nghèo, học sinh dân tộc vùng cao, vùng sâu, vùng lòng hồ
sông Đà. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, giáo viên vùng đồng bào dân
tộc đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, chuẩn hoá về trình độ đào tạo,
vững về tư tưởng chính trị và tinh thông về nghiệp vụ sư phạm. Tăng
cường đầu tư nguồn lực cho cho giáo dục vùng dân tộc; xây dựng trường
lớp kiên cố, hiện đại. Đổi mới cơ chế quản lý, chỉ đạo phù hợp; phát huy
tính chủ động, sáng tạo của cơ sở, huy động mội nguồn lực để phát triển
giáo dục. Tiếp tục củng cố thành quả xoá mù chữ - PCGDTH, đặc biệt chú
trọng vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn. Củng cố và tăng cường hệ thống
các trường DTNT, trường bán trú dân nuôi, thu hút học sinh đến trường,
chấm dứt tình trạng học sinh bỏ học, thất học, học sinh khó khăn, nghèo
phải bỏ học. Hoàn thiện cơ cấu hệ thống giáo dục, đáp ứng nhu cầu học
tập của con em các dân tộc trong tỉnh. Bên cạnh đó, cần quan tâm đầu tư
kinh phí thông qua các chương trình, dự án giúp đỡ các xã ĐBKK phát
triển GD&ĐT vùng dân tộc ít người; xây dựng trường DTNT liên xã, nhà
ở cho giáo viên, đào tạo nguồn cán bộ dân tộc từ các trường DTNT. Có
chế độ thoả đáng đối với học sinh, giáo viên người dân tộc có thành tích
xuất sắc. Có chính sách và chiến lược lâu dài đào tạo đội ngũ giáo viên
người dân tộc có trình độ trên chuẩn.
Cẩm Lệ