Đ/c Nguyễn Minh Thành - Giám đốc Sở GD&ĐT phát biểu chỉ đạo Hội nghị
Năm học 2011–2012 tiếp
tục thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, cuộc vận
động “Hai không”, cuộc vận động “Mỗi thầy giáo, cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo”
và phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”.
Đẩy mạnh thực hiện phổ cập GDMN cho trẻ em năm tuổi, phát triển quy mô,
mạng lưới trường, lớp mầm non đáp ứng với yêu cầu và tình hình thực tế. Đặc
biệt chú trọng đầu tư cơ sở vật chất và trang thiết bị, đồ dùng, đồ chơi đáp
ứng yêu cầu phát triển quy mô, nâng cao chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ, nhất
là đối với vùng khó khăn, vùng dân tộc thiểu số để thu hút trẻ đến trường; tập
trung ưu tiên cho mẫu giáo 5 tuổi; thực hiện tốt việc chuẩn bị tiếng Việt cho
trẻ dân tộc thiểu số trước khi vào lớp 1.
Nâng cao
chất lượng và phát huy hiệu quả 3 năm thực hiện phong trào thi đua “Xây dựng
trường học thân thiện, học sinh tích cực”, đưa hoạt động của phong trào trở
thành hoạt động thường xuyên trong các cơ sở GDMN, tập trung vào các nội dung:
xây dựng trường, lớp xanh, sạch, đẹp, an toàn, lành mạnh với mối quan hệ ứng xử
thân thiện giữa các thành viên trong nhà trường; tăng cường giáo dục hình thành
ở trẻ các phẩm chất mạnh dạn, tự tin trong mọi hoạt động, thân thiện với mọi
người xung quanh, lễ phép trong giao tiếp, ứng xử. Đảm bảo 100% cơ sở giáo dục
mầm non có đủ nhà vệ sinh phù hợp, an toàn và sạch sẽ. Phấn đấu có ít nhất 75%
số trường đạt tiêu chuẩn “Trường học thân thiện, học sinh tích cực” từ loại khá
trở lên.
Đ/c Trần Thị Bắc - Trưởng phòng GDMN triển khai nhiệm vụ Giáo dục mầm non năm học 2011-2012
Tích cực tham mưu với UBND các
cấp trong việc xây dựng và triển khai Đề án phát triển giáo dục mầm non, quy
hoạch đất, đầu tư kinh phí cho GDMN. Củng cố, mở rộng quy mô, mạng lưới cơ sở
giáo dục mầm non phù hợp với tình hình thực tiễn của địa phương, tạo điều kiện
thuận lợi và đáp ứng nhu cầu gửi con của các bậc phụ huynh, đặc biệt đối với các đô thị, khu công nghiệp, khu vực có tỷ
lệ trẻ ra lớp thấp.
Đầu tư kinh phí xây dựng đủ phòng
học cho các lớp mẫu giáo 5-6 tuổi, mua sắm trang thiết bị đồ dùng, đồ chơi cho
trẻ để thực hiện có chất lượng chương trình GDMN. Tuyển dụng đủ giáo viên và
bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho giáo viên để huy động tối đa trẻ mẫu giáo 5
tuổi đến trường học hai buổi/ngày theo chương trình GDMN.
Đảm bảo trẻ mẫu giáo 5 tuổi ở
vùng khó khăn, vùng đặc biệt khó khăn được học trong các trường công lập, được
chuẩn bị tốt tiếng Việt trước khi vào lớp 1. Các vùng còn lại tăng cường biện
pháp để có thể huy động hầu hết trẻ 5 tuổi vào học ở các loại hình trường khác
nhau.
Duy trì, ổn định và tăng tỷ lệ
trẻ đến các cơ sở GDMN ở tất cả các độ tuổi. Tăng tỷ lệ huy động trẻ đến trường
từ 0,5-1% đối với trẻ nhà trẻ, trẻ mẫu giáo; phấn đấu tỷ lệ chung toàn tỉnh đạt
ít nhất 42% trẻ độ tuổi nhà trẻ và 97% trẻ độ tuổi mẫu giáo đến trường. Đối
với trẻ 5 tuổi, đạt 100% trẻ học 2 buổi/ngày, huy động từ 99,9% trở lên ra lớp.
Quang cảnh Hội nghị
Tăng cường chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, giám
sát hoạt động nuôi dưỡng, chăm sóc sức khỏe tại các cơ sở GDMN. Quản lý chặt
chẽ chất lượng bữa ăn ở những nơi tổ chức ăn bán trú, thực hiện VSATTP theo quy
định hiện hành, chỉ đạo tốt việc tính khẩu phần ăn cho trẻ theo nhu cầu khuyến
nghị về năng lượng và các chất dinh dưỡng dành cho người Việt Nam của Bộ Y tế
và chương trình GDMN.
Tỷ lệ trẻ được ăn bán trú trong các cơ sở GDMN tăng 5-10 %, nâng tỉ lệ trẻ được ăn bán trú bình quân
toàn tỉnh là 100% đối với trẻ nhà trẻ và 85% đối với trẻ mẫu giáo. Những nơi chưa có điều
kiện tổ chức ăn bán trú cần phối hợp với gia đình để có biện pháp chống đói,
chống khát, chống rét cho trẻ trong thời gian ở trường nhằm thực hiện mục tiêu
phòng chống suy dinh dưỡng cho trẻ em. Tiếp tục thực hiện các biện pháp phòng
chống suy dinh dưỡng, phòng chống béo phì, giảm tỷ lệ
trẻ suy dinh dưỡng xuống dưới 7% ở mỗi thể nhẹ cân và thấp còi (suy dinh dưỡng thể
nhẹ cân - cân nặng theo tuổi: dưới 7%; suy dinh dưỡng thể thấp còi - chiều cao
theo tuổi: dưới 7%). Phấn đấu giảm ít nhất 1% số trẻ suy dinh dưỡng so
với cùng kì năm trước. Tiếp tục chỉ đạo mở rộng mô hình phòng chống suy dinh dưỡng cho
trẻ trong các cơ sở giáo dục mầm non.
Đảm bảo an toàn tuyệt đối về thể chất và tinh thần,
phòng tránh tai nạn thương tích cho trẻ trong các cơ sở GDMN. Giữ gìn môi
trường sinh hoạt, dụng cụ ăn uống, đồ dùng, đồ chơi của trẻ của trẻ sạch sẽ để
phòng chống một số bệnh do virut gây ra, dễ lây lan và gây nguy hiểm tới tính
mạng của trẻ.
Đào tạo, bồi dưỡng và tuyển đủ cán bộ chuyên trách
về y tế cho các cơ sở GDMN để thực hiện tốt công tác y tế trường học, phối hợp
với ngành y tế trong việc tổ chức cân đo, theo dõi sức khỏe bằng biểu đồ, khám
sức khỏe định kỳ, quản lý sức khỏe, tiêm chủng, phòng chống dịch bệnh cho trẻ
trong các cơ sở GDMN.
Phối hợp với
Sở Y tế và công ty Unilever Việt Nam triển khai chương trình “P/S Bảo Vệ Nụ
Cười Việt Nam”; Tiếp tục triển khai chương trình tuyên truyền giáo dục vệ sinh
cá nhân cho trẻ mầm non.. Chỉ đạo triển khai “Giáo dục trẻ rửa tay bằng xà phòng”; chú trọng giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non,
góp phần hình thành nền nếp thói quen tốt, hành vi văn minh có lợi cho sức khỏe
và sự phát triển lâu dài của trẻ.
Nâng cao nhận thức và kỹ
năng thực hành cho cán bộ, giáo viên về công tác phòng ngừa, ứng phó, giảm nhẹ
thiên tai trong các cơ sở GDMN nhằm giảm thiểu hậu quả của thảm họa thiên tai;
từng bước đưa nội dung giáo dục phòng ngừa, ứng phó với biến đổi khí hậu và
thảm họa thiên tai vào các cơ sở GDMN.
Trong năm học 2011-2012 phấn đấu 100% các trường thực
hiện chương trình GDMN, trong đó đảm bảo có ít nhất 95% số nhóm/lớp được thực
hiện chương trình. Sử dụng Bộ chuẩn phát
triển trẻ em 5 tuổi nhằm nâng cao chất lượng thực hiện chương trình GDMN. Tuyên
truyền rộng rãi cho các bậc cha mẹ trẻ và cộng động hiểu và biết cách sử dụng
Bộ chuẩn phát triển trẻ em 5 tuổi trong việc theo dõi sự phát triển của trẻ để
có biện pháp phối hợp tác động kịp thời giữa gia đình và
nhà trường giúp trẻ phát triển tốt, tạo nền tảng cho sự chuẩn bị vào lớp 1 của
trẻ. Tăng cường trao đổi, học tập, rút kinh nghiệm và hỗ trợ việc thực
hiện chương trình GDMN cho các cán bộ quản lí và các giáo viên của trường mầm
non triển khai, thực hiện chương trình này. Đặc biệt, tập trung chỉ đạo thực
hiện chương trình GDMN cho các cơ sở GDMN ở những vùng khó khăn.
Thực hiện
chương trình 26 tuần, tuyệt đối không ép trẻ tập đọc, viết chữ, học trước
chương trình lớp 1. Phát huy sáng tạo trong việc đổi mới phương pháp GDMN, tăng
cường các biện pháp chuẩn bị tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số trước khi bước
vào lớp một phù hợp điều kiện kinh tế, xã hội và văn hóa của địa phương.
Tăng đầu tư trang cấp thiết bị
CNTT và bồi dưỡng giáo viên đảm bảo 100% số trường được trang bị máy tính và
kết nối Internet; 70-75% CBQL, GV có khả năng khai thác, sử dụng và ƯDCNTT
trong thiết kế và tổ chức các hoạt động giáo dục, góp phần đổi mới phương pháp
chăm sóc, giáo dục trẻ mầm non.
Phát huy hiệu quả trang thiết bị
được cấp, nhân rộng việc sử dụng hợp lý các phần mềm quản lí, nuôi dưỡng, giáo
dục trẻ và các phần mềm xây dựng bài giảng tương tác điện tử ở những nơi có
điều kiện.
Tiếp tục thực hiện lồng ghép các nội dung giáo
dục an toàn giao thông, giáo dục bảo vệ môi trường và giáo dục sử dụng năng
lượng tiết kiệm, hiệu quả vào chương trình giáo dục mầm non.
Xây dựng đội ngũ CBQL và giáo
viên mầm non đảm bảo chất lượng, đủ số lượng đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục
mầm non và triển khai thực hiện Phổ cập GDMN cho trẻ em năm tuổi.
Chú trọng bồi dưỡng nâng cao năng
lực cho CBQL trường mầm non về quản lý trường học, hiểu biết, nắm vững và triển
khai có hiệu quả các văn bản quy định hiện hành, đặc biệt là quản lí công tác
phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em năm tuổi, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục
mầm non. Tăng cường vai trò của cán bộ quản lí các cơ sở mầm non trong việc tổ
chức thực hiện chương trình giáo dục mầm non.
Bồi dưỡng đội ngũ giáo viên về
đổi mới phương pháp, kỹ năng nghề nghiệp; đổi mới nội dung, hình thức bồi
dưỡng, tăng cường bồi dưỡng theo cụm trường, tự bồi dưỡng tại các trường nhằm
đảm bảo giáo viên có đủ năng lực, chủ động lựa chọn nội dung, phương pháp, hình
thức tổ chức các hoạt động giáo dục phù hợp với đối tượng trẻ theo chương trình
giáo dục mầm non. Tạo điều kiện, khuyến khích giáo viên tự học tập nâng cao
trình độ chuyên môn nghiệp vụ và tu dưỡng, rèn luyện đạo đức lối sống, không có
giáo viên vi phạm đạo đức nhà giáo. Rà soát đội ngũ cán bộ quản lý, kịp thời bổ
sung ở những nơi còn thiếu. Đảm bảo cán bộ quản lí, chỉ đạo GDMN các cấp có đủ
năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức, góp phần chỉ đạo triển khai
có hiệu quả các nhiệm vụ chính trị của ngành, thúc đẩy sự phát triển nhanh,
mạnh và bền vững.
Tập trung chỉ đạo thực
hiện có hiệu quả nguồn vốn kiên cố hoá trường học để xây mới, xóa phòng học
tạm, đảm bảo có đủ phòng học an toàn của GDMN, ưu tiên đủ phòng học cho trẻ 5
tuổi. Đẩy mạnh công tác xã hội hoá giáo dục, thu hút các nguồn đầu tư xây dựng
cơ sở vật chất trường lớp, công trình vệ sinh, nguồn nước sạch, bếp ăn ...
Tiếp tục đẩy mạnh xây
dựng trường mầm non đạt chuẩn quốc gia. Các huyện, thành phố tập trung chỉ đạo
theo Chỉ thị, Kế hoạch xây dựng chuẩn quốc gia theo lộ trình phù hợp, phấn đấu
đến năm 2015 có 50% số trường mầm non đạt chuẩn quốc gia trở lên. Ưu tiên tập
trung xây dựng trường mầm non đạt chuẩn quốc gia mức độ 1 ở các huyện khó khăn
làm nòng cốt cho việc nâng cao chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ ở địa bàn.
Phấn đấu trong năm học mỗi huyện, thành phố có thêm ít nhất 01 trường mầm non
đạt chuẩn quốc gia.
Các phòng giáo dục và đào tạo cần
có kế hoạch chỉ đạo tăng cường đầu tư trang thiết bị giáo dục, tài liệu, học
liệu, phương tiện cho các cơ sở GDMN, đặc biệt đối với các lớp mẫu giáo 5 tuổi
theo Danh mục và Tiêu chuẩn kĩ thuật Đồ dùng, đồ chơi, thiết bị dạy học tối
thiểu cho giáo dục mầm non.
Tăng cường sử dụng hiệu
quả, sáng tạo các tài liệu đã được cấp phát, các nội dung đã được tập huấn. Làm
tốt công tác tuyên truyền về giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật, chống phân biệt
đối xử đối với trẻ khuyết tật, kì thị đối với trẻ nhiễm HIV cho giáo viên,
nhân viên của nhà trường, cha mẹ trẻ và cộng đồng. Phát huy những kết quả đạt được
trong hoạt động phối hợp với các tổ chức quốc tế, tăng cường học hỏi kinh
nghiệm của các đơn vị thực hiện tốt để áp dụng hiệu quả và phù hợp tại địa
phương.
Tích cực phối hợp với các
cơ quan, ban ngành chức năng chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác truyền thông
bằng nhiều hình thức về giải pháp và kết quả phát triển GDMN của địa phương;
phổ biến các chủ trương, chính sách, quy định mới của ngành; sưu tầm, phát
hành các ấn phẩm về GDMN; phổ biến kiến thức khoa học về nuôi dạy con cho các
bậc cha mẹ, nhất là đối với những vùng có tỷ lệ trẻ đi nhà trẻ thấp. Những nơi
có điều kiện có thể xây dựng trang thông tin điện tử để các bậc cha mẹ trao đổi
học tập về cách nuôi dạy con tại gia đình, phát huy ảnh hưởng của GDMN đối với
xã hội, đồng thời tích cực huy động sự tham gia của các tổ chức xã hội,
các bậc cha mẹ và cộng đồng cùng chăm lo cho GDMN.
Thường xuyên bồi dưỡng cho cán bộ giáo viên về kiến thức, kỹ năng tuyên
truyền, phối hợp với các bậc cha mẹ và cộng đồng. Đầu tư kinh phí, các trang thiết
bị, phương tiện phục vụ công tác tuyên truyền cho các cơ sở giáo dục mầm non,
nhất là đối với các địa bàn nông thôn, miền núi, vùng dân tộc.
Tham mưu với chính quyền địa
phương về tổ chức thực hiện việc quản lý, kiểm tra, cấp giấy phép hoạt động của
các trường, nhóm lớp tư thục đủ điều kiện và kiên quyết đóng cửa những cơ sở
không đủ điều kiện.