Một ngày đến trường là một ngày vui
Thực hiện chủ đề năm học 2010 – 2011 “Năm học tiếp
tục đổi mới quản lý và nâng cao chất lượng giáo dục”. Tiếp tục triển khai, thực
hiện Chương trình GDMN mới; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quản
lý và nâng cao chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ; phát triển về số lượng và
nâng cao chất lượng trường mầm non đạt chuẩn quốc gia. Tập trung chỉ đạo thực
hiện Phổ cập GDMN cho trẻ em năm tuổi theo Quyết định số 239/QĐ-TTg ngày
9/02/2010 của Thủ tướng Chính phủ, đặc biệt quan tâm nâng cao chất lượng chăm
sóc, giáo dục trẻ vùng khó khăn, vùng miền núi, vùng dân tộc thiểu số, chuẩn
bị tiếng Việt cho trẻ dân tộc trước khi vào lớp 1. Nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền về GDMN,
huy động sự tham gia tích cực của cha mẹ và cộng đồng cùng chăm lo cho GDMN,
đồng thời huy động mọi nguồn lực để phát triển GDMN bền vững.
Để triển khai thực hiện
tốt chủ đề năm học giáo dục mầm non tập
trung thực hiện tốt các nhiệm vụ cụ thể sau:
Tiếp tục thực hiện Chỉ
thị số 06/CT-TW của Bộ Chính trị về cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh”, Chỉ thị số 33/2006/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về chống tiêu
cực và khắc phục bệnh thành tích trong giáo dục và cuộc vận động “Hai không”,
cuộc vận động “Mỗi
thầy giáo, cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo” của
ngành và
phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”. Các cơ
sở GDMN tiếp tục thực hiện tốt cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh”, gắn với thực hiện cuộc vận động “Hai không” và cuộc vận động “Mỗi thầy giáo, cô
giáo là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo”, rèn luyện phẩm
chất đạo đức, tác phong mẫu mực, lối sống lành mạnh, thực hành tiết kiệm, chống
tham ô, lãng phí. Tiếp tục triển khai lồng ghép có hiệu quả các nội dung giáo
dục tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh vào các hoạt động chung của nhà trường, hoạt
động chăm sóc, giáo dục trẻ. Tổ chức các hoạt động thiết thực hướng tới Đại lễ
1000 năm Thăng Long - Hà Nội. Tích cực phối hợp với các tổ chức ban ngành, đoàn
thể chỉ đạo nâng cao chất lượng và hiệu quả của phong trào thi đua “Xây dựng
trường học thân thiện, học sinh tích cực”; huy động sự tham gia đóng góp của các
tổ chức, các lực lượng xã hội, gia đình; xây dựng cảnh quan, môi trường sư phạm
lành mạnh trong các cơ sở GDMN; xây dựng mối quan hệ ứng xử thân thiện giữa các
thành viên trong nhà trường; tăng cường giáo dục kĩ năng sống cho trẻ (kĩ năng tự phục vụ, thói quen vệ sinh tốt;
kỹ năng tự bảo vệ an toàn bản thân; mạnh dạn trong giao tiếp; thân thiện với
bạn bè; lễ phép với người lớn tuổi...). Các trường chủ động xây dựng các tiêu
chí ứng xử thân thiện phù hợp với thực tiễn, văn hóa của địa phương. Đẩy mạnh xây dựng môi trường xanh, sạch, đẹp, an
toàn; lựa chọn và triển khai các trò chơi dân gian, bài hát dân ca, câu đố, hò,
vè phù hợp với lứa tuổi mầm non để đưa vào các hoạt động vui chơi của trẻ
...; đảm bảo 100% cơ sở GDMN có đủ nhà vệ sinh phù hợp, an toàn và sạch sẽ.
Phấn đấu 70% số trường đạt tiêu chuẩn
“trường học thân thiện, học sinh
tích cực” từ loại khá trở lên. Tổ chức tham quan, học tập kinh nghiệm các
đơn vị điển hình về xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực trong và ngoài
địa phương. Tăng cường, củng cố, mở rộng quy mô, mạng lưới cơ sở GDMN và
phổ cập GDMN cho trẻ em năm tuổi. Phát triển quy mô, mạng lưới trường, lớp mầm
non phù hợp với yêu cầu và tình hình thực tế của địa phương. Các tỉnh, thành
phố tích cực thực hiện Đề án phát triển GDMN do UBND tỉnh, thành phố phê duyệt.
Căn cứ thực tiễn của địa phương, tham mưu với chính quyền các cấp quy hoạch
mạng lưới trường, lớp, đầu tư ngân sách và khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư
xây dựng trường, lớp, mở rộng quy mô GDMN, phấn đấu đạt mục tiêu chung về tỷ lệ
trẻ đến trường, lớp, tạo điều kiện thuận lợi và đáp ứng nhu cầu gửi con của các
bậc cha mẹ.Tập trung chỉ đạo
triển khai thực hiện Đề án Phổ cập GDMN cho trẻ em năm tuổi giai đoạn 2010 –
2015 theo Quyết định số 239/QĐ - TTg của Thủ tướng Chính phủ. Các tỉnh, thành
phố xây dựng kế hoạch thực hiện Phổ cập cho giai đoạn 5 năm và từng năm: tập
trung kinh phí xây dựng đủ phòng học cho trẻ mầm non năm tuổi, mua sắm trang
thiết bị đồ dùng, đồ chơi cho trẻ để thực hiện có chất lượng chương trình GDMN,
tuyển dụng đủ giáo viên và bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên để
huy động tối đa trẻ 5 tuổi đến trường và chăm sóc, giáo dục hai buổi/ngày theo
chương trình GDMN mới. Đảm bảo trẻ mầm non 5 tuổi ở vùng khó khăn, vùng đặc
biệt khó khăn được học trong các trường công lập, được chuẩn bị tốt tiếng Việt
trước khi vào lớp 1. Các vùng còn lại huy động hầu hết trẻ 5 tuổi vào học trong
các loại hình trường khác nhau. Tiếp tục huy động trẻ nhà trẻ đến trường tăng
ít nhất từ 0,5 – 1% và từ 2 - 3% ở mẫu giáo. Phấn đấu tỷ lệ chung toàn quốc đạt
từ 22% - 25% trẻ trong độ tuổi nhà trẻ, 82 - 85% trẻ mẫu giáo được đến trường.
Những tỉnh có tỷ lệ huy động trẻ nhà trẻ dưới 10% và mẫu giáo dưới 75% cần phấn
đấu tăng thêm ít nhất 1% ở nhà trẻ và 2-3 % ở mẫu giáo. Đối với trẻ 5 tuổi, tất
cả các địa phương huy động đạt tỷ lệ từ 95% trở lên, trong đó phấn đấu 70 - 75% trẻ 5 tuổi được học 2 buổi/ngày.
Một giờ học chữ
Chỉ đạo nâng cao chất lượng GDMN.
Coi trọng công tác chăm sóc sức khoẻ
và nuôi dưỡng Chú trọng công tác
chăm sóc, nuôi dưỡng, bảo vệ sức khỏe, đảm bảo an toàn tuyệt đối về thể chất và
tinh thần, phòng tránh tai nạn thương tích cho trẻ ở các cơ sở GDMN. Phối hợp
với các ban, ngành, đoàn thể, nhất là ngành y tế trong việc chăm sóc sức khỏe cho trẻ (tổ chức
cân đo, theo dõi sức khỏe bằng biểu đồ, khám sức khỏe định kỳ, quản lý sức
khỏe, tiêm chủng, phòng chống dịch bệnh) trong các cơ sở GDMN. Thực hiện phòng
chống HIV/AIDS trong đội ngũ cán bộ, giáo viên và các hoạt động chăm sóc, giáo
dục trẻ theo Luật phòng chống HIV/AIDS. Đào tạo, bồi dưỡng và tuyển đủ cán bộ
chuyên trách về y tế cho các cơ sở GDMN. Tiếp tục thực hiện nghiêm túc Quyết định số 401/QĐ-TTg
ngày 27 tháng 3 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình phòng,
chống bệnh tật trong các cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân, Quyết
định số 58/QĐ-BGDĐT quy định các hoạt động y tế trong các cơ sở GDMN, Thông tư
liên tịch số 08/2008/TTLT/BYT-BGDĐT về đảm bảo công tác vệ sinh an toàn thực
phẩm trong các cơ sở GDMN. Tăng cường chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát
các hoạt động nuôi dưỡng, chăm sóc tại các cơ sở GDMN. Những nơi tổ chức ăn bán
trú cần phối hợp với ngành y tế trong việc kiểm tra và cấp giấy phép bếp đạt
tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm (VSATTP), trang bị đầy đủ đồ dùng, phương
tiện phục vụ cho việc tổ chức bán trú của trẻ, chỉ đạo tốt việc tính khẩu phần
ăn cho trẻ theo nhu cầu khuyến nghị về năng lượng và các chất dinh dưỡng dành
cho người Việt Nam của Bộ Y tế (Quyết định số 2824/2007/QĐ-BYT) và chương trình
GDMN; tăng cường quản lý chất lượng bữa ăn, thực hiện VSATTP tại các cơ sở GDMN
theo quy định hiện hành. Tăng 3 - 5 % tỷ lệ trẻ được ăn bán trú trong các cơ sở
GDMN. Những
nơi chưa có điều kiện tổ chức ăn bán trú cần phối hợp với gia đình để có biện
pháp chống đói, chống khát, chống rét cho trẻ trong thời gian ở trường nhằm
thực hiện mục tiêu phòng chống suy dinh dưỡng cho trẻ em. Tiếp tục thực hiện
các biện pháp phòng chống suy dinh dưỡng, quan tâm giảm tỷ lệ trẻ thấp còi, béo
phì, nhằm giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng xuống dưới 10% và giảm từ 1 - 2% số trẻ suy
dinh dưỡng so với cùng kì năm trước. Tăng tỷ lệ các trường mầm non có mô hình
phòng chống suy dinh dưỡng.
Triển khai thực hiện
Chương trình GDMN mới. Tiếp tục mở rộng số trường mầm non thực hiện chương
trình GDMN mới. Các sở giáo dục và đào tạo chủ động triển khai kế hoạch, lộ
trình thực hiện, phấn đấu trong năm học này có 70% số trường/nhóm, lớp thực
hiện chương trình GDMN mới. Tăng cường đầu tư trang thiết bị giáo dục, tài
liệu, học liệu, phương tiện cho các cơ sở GDMN để thực hiện chương trình GDMN.
Khuyến khích các địa phương chủ động, sáng tạo trong việc thực hiện chương
trình phù hợp với tình hình thực tế của địa phương, bảo đảm chất lượng chăm
sóc, giáo dục trẻ. Các trường chưa đủ điều kiện thực hiện chương trình GDMN mới
có kế hoạch bồi dưỡng đội ngũ, tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học
để tiếp cận với chương trình. Tiếp tục tổ chức bồi dưỡng giáo viên thực hiện
chương trình GDMN mới, đổi mới nội dung, hình thức bồi dưỡng, tăng cường bồi
dưỡng theo cụm trường, tự bồi dưỡng tại các trường đảm bảo chất lượng, hiệu
quả. Tổ chức trao đổi, học tập, rút kinh nghiệm và hỗ trợ việc thực hiện chương
trình GDMN cho các cơ quan quản lí, chỉ đạo và các trường mầm non. Tập trung
chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện chương trình GDMN mới ở những vùng khó khăn. Tổ
chức tập huấn về Bộ chuẩn phát triển trẻ 5 tuổi, được ban hành tại Thông tư số
23/TT-BGD&ĐT ngày 22 tháng 7 năm 2010 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT và hướng
dẫn sử dụng ở một số tỉnh trước khi triển khai diện rộng. Chỉ đạo dứt điểm,
không còn lớp mẫu giáo thực hiện chương trình 36 buổi, tuyệt đối không dạy trẻ
viết chữ, không dạy trước chương trình lớp 1. Các địa phương phát huy sáng tạo
trong việc đổi mới phương pháp GDMN, đề xuất các giải pháp, xây dựng tài liệu
tăng cường tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số phù hợp điều kiện kinh tế, xã
hội và văn hóa của địa phương, làm tốt việc
chuẩn bị tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số trước khi vào lớp 1.
Đẩy mạnh ứng dụng công
nghệ thông tin (CNTT) trong trường mầm non. Các sở giáo
dục và đào tạo cần tham mưu, xây dựng Đề án ứng dụng CNTT trong GDMN theo Quyết
định số 698/QĐ-TTg ngày 01/6/2009 của Thủ tướng Chính phủ. Tăng cường đầu tư trang
thiết bị cho việc ứng dụng CNTT và kết nối Internet cho các trường mầm non.
Phấn đấu đến hết năm học 2010 - 2011 có ít nhất 60% giáo viên mầm non có khả
năng ứng dụng CNTT trong tổ chức các hoạt động giáo dục trẻ, góp phần đổi mới
phương pháp chăm sóc, giáo dục trẻ; ít nhất 90% số trường được trang bị máy
vi tính, tất cả các trường đều được kết nối Internet. Nhân rộng việc sử dụng
các phần mềm giáo dục, nuôi dưỡng trẻ (Kidsmart, Happykid, Nutrikids) và các
phần mềm quản lí khác cho hoạt động của trường mầm non. Sử dụng hợp lí các phần
mềm xây dựng bài giảng tương tác điện tử ở những nơi có điều kiện.
Tiếp tục triển khai
nội dung giáo dục an toàn giao thông, giáo dục bảo vệ môi trường và giáo dục
sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả. Trên cơ sở thực hiện chương trình GDMN,
hướng dẫn giáo viên lựa chọn nội dung giáo dục an toàn giao thông phù hợp với
vùng miền và hướng vào trọng tâm phát triển kỹ năng thực hiện quy định an toàn
giao thông. Lựa chọn phương pháp, hình thức giúp trẻ tăng cường thực hành trải
nghiệm. Chỉ đạo điểm Hội thi giáo dục an toàn giao thông ở một số tỉnh, thành
phố.
Xây dựng, nâng cao chất lượng
đội ngũ CBQL và giáo viên. Tiếp tục thực hiện Quyết định số 09/2005/QĐ-TTg ngày
01/01/2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt đề án “Xây dựng nâng cao
chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lí giáo dục giai đoạn 2005 – 2010”. Tập
trung đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên đủ về số lượng, đảm bảo chất lượng để
thực hiện chương trình GDMN mới, đáp ứng yêu cầu triển khai Đề án Phổ cập GDMN
cho trẻ em năm tuổi. Tổ chức dạy tiếng dân tộc cho CBQL và GVMN đang công tác
tại các vùng dân tộc; tiếp tục quản lí chất lượng giáo viên theo chuẩn nghề
nghiệp giáo viên mầm non do Bộ GD&ĐT ban hành năm 2007.
Về chính sách đối với giáo viên,
nhân viên: các sở giáo dục và đào tạo tích cực tham mưu Ủy ban nhân dân tỉnh
thực hiện chế độ, chính sách đào tạo, tuyển dụng giáo viên, nhân viên (kế toán,
văn phòng, y tế...) cho trường mầm non phù hợp với quy hoạch mạng lưới cơ sở
GDMN và khả năng ngân sách của địa phương. Quan tâm đời sống giáo viên mầm non,
đặc biệt là giáo viên mầm non ngoài biên chế trong các trường công lập, dân lập,
đảm bảo hưởng lương theo ngạch bậc và tăng lương theo định kỳ. Rà soát, bổ sung
đội ngũ cán bộ quản lý những nơi còn thiếu. Tăng cường bồi dưỡng kiến thức,
nâng cao năng lực về quản lý trường học, nâng cao hiểu biết các văn bản quy
định hiện hành cho CBQL trường mầm non để đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục, đảm
bảo thực hiện tốt chủ đề năm học
“Tiếp tục đổi mới quản lý và nâng cao
chất lượng giáo dục”.
Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị và kinh phí cho GDMN. Tiếp tục thực
hiện có hiệu quả nguồn vốn kiên cố hoá để xây mới phòng học, trước hết ưu tiên
đủ phòng học cho trẻ 5 tuổi. Đẩy mạnh công tác xã hội hoá giáo dục, thu hút các
nguồn đầu tư xây dựng cơ sở vật chất trường lớp, công trình vệ sinh, nguồn nước
sạch, bếp ăn ... Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng trường mầm non đạt chuẩn quốc gia
theo Quyết định số 36/2008/QĐ-BGDĐT ngày 16/7/2008 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT
về việc ban hành Quy chế công nhận trường mầm non đạt chuẩn quốc gia. Có kế
hoạch xây dựng trường mầm non đạt chuẩn quốc gia mức độ 1 ở 86 huyện nghèo làm
nòng cốt cho việc nâng cao chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ ở địa bàn. Phấn
đấu mỗi tỉnh, thành phố có thêm ít nhất 3 trường mầm non đạt chuẩn quốc gia.
Thực hiện công bằng trong
giáo dục, ưu tiên phát triển giáo dục dân tộc, giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật.
Thực hiện hỗ trợ ăn trưa cho trẻ em 5 tuổi vùng núi cao, biên giới, trẻ em
con gia đình nghèo, tạo điều kiện để trẻ đến trường, lớp mầm non theo Quyết
định số 239/2010/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Thực hiện các Quyết định về
miễn giảm học phí và hỗ trợ chi phí học tập cho trẻ em học mẫu giáo vùng khó
khăn, con em các hộ nghèo theo Nghị định số 49/2010/NĐ-CP ngày 14 tháng 5 năm
2010 của Chính phủ.
Thực hiện nghiêm
túc các qui định tại Quyết định số 23/2006/QĐ-BGDĐT về giáo dục hòa nhập trẻ
khuyết tật. Lập hồ sơ theo dõi sự tiến bộ của trẻ khuyết tật học hòa nhập theo
hướng dẫn của Bộ GD&ĐT. Chỉ đạo thực hiện điều chỉnh các nội dung giáo dục
cho trẻ khuyết tật theo nhu cầu, khả năng và điều kiện thực tế nhằm đảm bảo
công bằng cho trẻ khuyết tật. Tổ chức lập kế hoạch phối hợp với cấp Tiểu học
thực hiện việc chuyển giao trẻ khuyết tật mầm non vào tiểu học, đảm bảo quá
trình giáo dục của trẻ liên tục và có sự tiếp nối giữa hai cấp học. Sử dụng
hiệu quả, sáng tạo các tài liệu đã được cấp phát, các nội dung đã được tập
huấn. Tăng cường tuyên truyền cho cha mẹ trẻ khuyết tật, cha mẹ trẻ khác trong
trường, lớp, cộng đồng và các ban ngành về giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật.
Phát huy những kết quả đạt được trong hoạt động phối hợp với các tổ chức quốc
tế, tăng cường học hỏi kinh nghiệm của các đơn vị thực hiện tốt để áp dụng hiệu
quả và phù hợp tại địa phương.
Tăng cường phổ biến kiến
thức nuôi dạy trẻ cho các bậc cha mẹ, cộng đồng và tuyên truyền về GDMN. Tăng
cường bồi dưỡng cho cán bộ, giáo viên kiến thức và kỹ năng tuyên truyền, phối
hợp với các bậc cha mẹ và cộng đồng và đầu tư trang thiết bị phục vụ công tác
tuyên truyền cho các cơ sở GDMN. Tích cực phối hợp với các cơ quan, ban ngành
chức năng chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác thông tin, truyền thông bằng
nhiều hình thức về giải pháp và kết quả phát triển GDMN của địa phương; phổ
biến các chủ trương, chính sách, quy định mới của ngành; sưu tầm, phát
hành các ấn phẩm về GDMN tại cơ sở để trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm; phổ biến
kiến thức khoa học về nuôi dạy con cho các bậc cha mẹ, nhất là đối với những
vùng có tỷ lệ trẻ đi nhà trẻ thấp. Những nơi có điều kiện có thể xây dựng trang
thông tin điện tử để các bậc cha mẹ trao đổi học tập về cách nuôi dạy con tại
gia đình, phát huy ảnh hưởng của GDMN đối với xã hội, đồng thời tích cực huy
động sự tham gia của các tổ chức xã hội, các bậc cha mẹ và cộng đồng cùng
chăm lo cho GDMN. Đổi mới nội dung, đa dạng
hóa các hình thức tuyên truyền và tài liệu truyền thông kiến thức chăm sóc,
giáo dục trẻ cho các bậc cha mẹ phù hợp với điều kiện vùng miền. Tăng cường
kiểm tra đánh giá việc thực hiện các nội dung, hình thức tuyên truyền ở các
trường lớp mầm non và đưa vào tiêu chí thi đua.
Văn Hùng - Hồng Mến